Văn ngôn ở các nước Văn_ngôn

Văn ngôn từng được dùng trong các văn bản chính thức không những ở Trung Quốc mà cả ở những nước chịu ảnh hưởng Hán học như Triều Tiên (tiếng Hàn gọi là hanmun), Việt NamNhật Bản (tiếng Nhật: kanbun). Sang thế kỷ XX, tại Trung Quốc, văn ngôn bị loại bỏ bởi văn bạch thoại, một dạng văn viết dựa trên nền tảng văn nói Quan thoại. Trong khi đó ở các nước, Hàn, Nhật và Việt thì ngôn ngữ bản xứ chiếm lĩnh văn đàn. Văn ngôn cũng mất địa vị là phương tiện hành văn trong sách vở.

Một cách nhận diện rõ rệt để phân biệt văn ngôn và văn bạch thoại ngày nay là văn ngôn hay dùng những chữ 之 (nay thay bằng 的) hay 已、矣、乎、也 (nay thay bằng 了, 吧, 啊, 嗎...) trong cú pháp. Những chữ đó nay không còn dùng trong văn hiện đại nữa.

Lấy ví dụ câu đầu trong Bình Ngô đại cáo, một áng văn chương quan trọng của người Việt viết từ thế kỷ XV:

蓋聞﹕仁義之舉,要在安民,吊伐之師,莫先去暴...

Phiên âm: Cái văn: Nhân nghĩa chi cử, yếu tại yên dân, điếu phạt chi sư, mộ tiên khử bạo...

Dịch nghĩa: Tượng mảng: Việc nhân-nghĩa, cốt ở yên dân, Quân điếu-phạt, trước lo trừ bạo

Văn ngôn trong văn chương Việt Nam

Nhiều tác phẩm của người Việt trước thế kỷ XX viết bằng chữ Hán đều dùng văn ngôn để diễn đạt, trong số đó có những áng văn chương quan trọng như: